Lời giải 1:
Họ tên người giải: sanserror6
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa đã tạo thành ba dòng thác cách mạng tấn công nhiều phía vào chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên thế giới với mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, đã giành được những thắng lợi to lớn, nhất là phong trào giải phóng dân tộc đã làm xụp đổ gần như toàn bộ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Hầu hết các nước thuộc địa ở Á, Phi và Mỹ Latinh đã giành lại quyền độc lập dân tộc, nhờ vậy đã thúc đẩy tiến bộ xã hội và tạo ra một lực lượng đông đảo tập hợp trong phong trào không liên kết(NAM). Tuy nhiên, cũng giai đoạnh này, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu xuất hiện những bất đồng, điển hình là mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc, gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới trong đó có cách mạng Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của nước ta là: đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhât nước nhà. Công tác đối ngoại nói chung phải tập trung phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược đó. Khi Mỹ leo thang chiến tranh, các nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 (tháng 3-1965 và tháng 12-1965) xác định rõ thêm nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân các nước trên toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, công tác đối ngoại nhân dân nói chung trong đó có các hoạt động hòa bình, đoàn kết, hữu nghị luôn được sự lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng.
Tháng 2-1963, Ban Công tác quốc tế Trung ương được thành lập do đồng chí Xuân Thủy, Bí thư Trung ương Đảng làm Trưởng ban; đồng chí Lê Toàn Thư, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng làm Phó Trưởng ban.
Tháng 4-1968, Đảng đoàn các tổ chức hòa bình đoàn kết, hữu nghị được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư.
Ngày 5-6-1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 2246-NQNS/TW, giải thể Ban Công tác quốc tế và Đảng đoàn các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và thành lập Ban Quốc tế nhân dân, do đồng chí Xuân Thủy làm Trưởng ban và đồng chí Lê Toàn Thư làm Phó Trưởng ban.
Riêng đối với miền Nam, đầu mối trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động đối ngoại nhân dân lúc đầu là Ban Thống nhất (CP40), từ năm 1972 là CP72 do đồng chí Nguyễn Thị Bình làm Bí thư Ban Cán sự Đảng.
Dưới sự chỉ đạo củ Trung ương Đảng thông qua Ban Công tác quốc tế, Đảng đoàn các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, rồi Ban Quốc tế nhân dân, và các Ban CP40, CP72, hoạt động đối ngoại nhân dân phát triển mạnh mẽ ở cả hai miền Nam – Bắc.
Ở miền Bắc, các hoạt động hữu nghị song phương tiếp tục được đẩy mạnh với trọng tâm củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị nhân dân với Liên Xô, Trung Quốc, Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Cuba, đồng thời mở rộng quan hệ nhân dân với các nước độc lập dân tộc, các phong trào giải phóng dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ đoàn kết của các lực lượng tiến bộ yêu chuộng hòa bình công lý ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Hội hữu nghị Việt – Xô và Hội hữu nghị Việt – Trung được thành lập trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp vẫn tiếp tục hoạt động và được củng cố về mặt tổ chức và ban lãnh đạo. Sau khi Chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Trung Bùi Kỷ qua đời năm 1960, đồng chí Xuân Thủy được cử làm Chủ tịch hội. Hoạt động hữu nghị nhân dân thong qua kênh của Hội hữu nghị Việt – Xô và Hội hữu nghị Việt – Trung, phối hợp với Hội hữu nghị Xô – Việt và Trung – Việt hữu hảo đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào rộng lớn của nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung Quốc ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ ngay cả trong thời kỳ giữa Liên Xô và Trung Quốc có những bất đồng.
Truyền thống hữu nghị, đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia vốn đã nảy nở và phát triển trong cuộc đấu tranh chung chống thực dân Pháp lại càng được củng cố trong thời kỳ đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Hội nghị nhân dân Đông Dương tại Phnom Pênh tháng 8-1965 đã thông qua Nghị quyết về vấn đề Việt Nam biểu thị tình cảm hữu nghị, đoàn kết và sự ủng hộ của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đối với nhân dân Việt Nam. Tháng 1-1975, Hội hữu nghị Việt Nam – Lào do Phó Thủ tướng Trần Hữu Dực làm Chủ tịch và Hội hữu nghị Việt Nam – Campuchia do Phó Thủ tướng Phan Trọng Tuệ làm Chủ tịch được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước cùng trên bán đảo Đông Dương.
Năm 1965, Hội hữu nghị Việt Nam – Cuba được thành lập với vị Chủ tịch đầu tiên là đồng chí Hoàng Tùng Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng biên tập Báo Nhân dân. Hội đã phối hợp với Hội hữu nghị Cuba – Việt Nam trong các hoạt động đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Phong trào đoàn kết ủng hộ Việt nam phát triển mạnh ở Cuba và được thể hiện cô đọng trong câu nói nổi tiếng của chủ tịch Cuba Fidel Castro: “Máu của Việt Nam cũng là máu của Cuba. Vì Việt Nam, Cuba sẵn sang hiến dâng cả máu của mình”.
Các nước độc lập dân tộc, các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh coi cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam là tấm gương sáng đã sớm dấy lên phong trào đoàn kết, hữu nghị với Việt Nam, với nhiều hình thức phong phú, sôi nổi, đặc biệt ở Ấn Độ, các nước Mỹ Latinh.
Tại các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào đoàn kết, hữu nghị với nhân dân Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ và lan rộng trong các tầng lớp nhân dân. Tháng 5-1961, Hội hữu nghị Việt – Pháp chính thức ra mắt, do Giáo sư Hoàng Xuân Sính làm Chủ tịch (trên cơ sở Quyết định của Bộ Nội vụ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tháng 7-1955). Đại hội đề ra chương trình hành động nhằm củng cố mối quan hệ đoàn kết sẵn có với nhân dân Pháp từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và thúc đẩy phong trào nhân dân Pháp đoàn kết với Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Hàng trăm tổ chức đoàn kết với Việt Nam ở các nước tư bản chủ nghĩa khác cũng đã được hình thành với nhiều hoạt động phong phú (như ở Ý, Thụy Điển, Đan Mạch, Vương quốc Anh, Nhật Bản…)
Đặc biệt, phong trào nhân dân tiến bộ Mỹ chống chiến tranh xâm lược ngay trong lòng nước Mỹ, thu hút hang triệu người Mỹ thuộc đủ mọi thành phần tham gia.
Năm 1966, Tiểu ban Mỹ vận được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên Bộ Chính trị, có nhiệm vụ nghiên cứu và tham mưu các chủ trương tuyên truyền, giải thích cho nhân dân và công luận Mỹ về lập trường chính nghĩa của nhân dân ta và sự phi nghĩa của chiến tranh xâm lược của chính quyền Mỹ.
Trên cơ sở đó, tháng 7-1968, Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ được thành lập, do Giáo sư Hoàng Minh Giám, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, làm Chủ tịch. Từ thời điểm đó cho đến khi Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước (năm 1975), Ủy ban đã làm đầu mối quan hệ với tất cả các tổ chức và cá nhân của phong trào phản chiến ở Mỹ. Cuộc gặp gỡ Việt – Mỹ tại Bratislava (Tiệp Khắc) tháng 9-1967 là một sự kiện quan trọng trong quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Hai đoàn đại biểu từ hai miền của Việt Nam (đoàn miền Bắc do ông Nguyễn Minh Vỹ dẫn đầu, đoàn miền Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu) đã gặp đoàn đại biểu của nhân dân Mỹ, đem đến cho các ban Mỹ niềm tin vào cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ cũng đón hàng trăm người, cả trong và ngoài phong trào phản chiến ở Mỹ, đến thăm miền Bắc Việt Nam với mục đích trực tiếp trải nghiệm cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ và tận mắt chứng kiến những tội ác dã man mà không quân Mỹ gây ra cho dân thường Việt Nam. Nhưng tư liệu, bức ảnh, cuộn phim, băng ghi âm… mà những người bạn Mỹ mang về đã làm rõ thêm tội ác chiến tranh của Mỹ và cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam trong dư luận Mỹ và thế giới, qua đó góp phần thúc đẩy phong trào phản chiến ở Mỹ phát triển mạnh mẽ. Có thể nói, phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng, buộc chính quyền Mỹ phải xuống thang và chấp nhận đàm phán dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ta vào mùa xuân năm 1975. Hoạt động đối ngoại nhân dân đa phương được đẩy mạnh trong khuôn khổ các chương trình hành động của Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, ủy ban Đoàn kết với nhân dân Á – Phi của Việt Nam và Hội Quốc tế ngữ bảo vệ hòa bình của Việt Nam.
Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam tiếp tục tích cực hoạt động trong phong trào hòa bình thế giới ( Ủy ban thành lập năm 1950, do Bác sĩ Lê Đình Thám làm Chủ tịch; năm 1967 do Luật sư Phan Anh là Chủ tịch). Ủy ban đã mở cuộc vận động và thu được 5 triệu chữ ký hưởng ứng Tuyên bố Beclin đòi năm nước lớn ký Công ước Hòa bình(1955), thamg gia Hội nghị thế giới chống bo, A&H đầu tiên ở Nhật Bản(tháng 8-1955). Hoạt động này thể hiện sự nhiệt tình ủng hộ nhân dân ta đối với sáng kiến hòa bình của các nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần đoàn kết với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các quốc gia đang bị áp bức trên thế giới, ủng hộ năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước. Ủy ban đã tích cực góp phần mở rộng phong trào hòa bình, đoàn kết, hữu nghị trong các nước Á – Phi, tham gia thành lập tổ chức Đoàn kết nhân dân Á – Phi (AAPSO) tháng 1-1958.
Trong khi Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại Hiệp định Gionevo, Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam đã tiến hành tổ chức Đại hội nhân dân Việt Nam bảo vệ hòa bình lần thứ ba với gần 1.000 đại biểu tham dự, nhằm quán triệt nhiệm vụ mới, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giành hòa bình, thống nhất đất nước, xây dựng miền Bắc, bảo vệ hòa bình thế giới. Khi Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam, Ủy ban đã tổ chức Đại hội hòa bình lần thứ tư vào năm 1962 nhằm đẩy mạnh phong trào hòa bình, chống lại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam.
Là một trong những thành viên sáng lập của Hội đồng Hòa bình thế giới(WPC), Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động của WPC. WPC cũng tổ chức nhiều hoạt động đoàn kết với Việt Nam, coi đoàn kết với Việt Nam là nhiệm vụ hàng đầu của phong trào hòa bình thế giới. Các đại hội của Hội đồng đều có nghị quyết ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam.
Tháng 10-1956, Ủy ban Đoàn kết châu Á của Việt Nam được thành lập, do Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, làm Chủ tịch. Sau hội nghị Đoàn kết nhân dân Á – Phi lần thứ nhất tổ chức tại Cairo(Ai Cập) từ ngày 20-12-1957 đến ngày 1-1-1958 và việc thành lập Tổ chức Đoàn kết nhân dân Á – Phi(AAPSO), Ủy ban Đoàn kết châu Á của Việt Nam được mở rộng thành Ủy ban Đoàn kết nhân dân Á – Phi của Việt Nam và là một trong những thành viên sáng lập của AAPSO. Sau khi Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng qua đời, Ủy ban do ông Tôn Quang Phiệt, Phó Chủ tịch ban Thường vụ Quốc hội, làm Chủ tịch.
Ngay từ những ngày đầu, Ủy ban đã tích cực tham gia các hoạt động của AAPSO, cử đoàn tham dự các hội nghị đoàn kết quốc tế do AAPSO tổ chức hoặc đi thăm các nước châu Á, châu Phi, nhằm tuyên truyền về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống xâm lược Mỹ, đồng thời biểu thị tình đoàn kết và sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân ta đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Á – Phi – Mỹ Latinh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, giành và bảo vệ độc lâp, chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Thông qua những hoạt động đó, Ủy ban đã giành được sự ủng hộ tích cực và chí tình của AAPSO qua nhiều hoạt động, tổ chức các hội nghị quốc tế, phát động phong trào quần chúng, ra tuyên bố nghị quyết ủng hộ Việt Nam. Vấn đề Việt Nam luôn có một vị trí quan trong trong hoạt động của AAPSO. Tại Đại hội lần thứ hai ở Conakry(Ghine) tháng 4-1960 AAPSO thành lập Ban Chấp hành và cử Việt Nam tham gia vào Ban Chấp hành. Tại Đại hội thứ ba ở Moshi(Ghana) năm 1965 của AAPSO đã lấy vấn đề Việt Nam làm trung tâm, lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ lập trường bốn điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bác bỏ luận điệu thương lượng không điều kiện của Mỹ. Tháng 9-1968, AAPSO triệu tập Hội nghị bất thường ủng hộ nhân dân Việt Nam ở Cairo(Ai Cập), đề ra chương trình hành động, trong đó có hoạt động tuyên truyền cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Tháng 7-1972, sau khi Mỹ ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam và phong tỏa cảng Hải Phòng, AAPSO đã vận động 8 nước châu Phi mời hai đoàn đại biểu của Ủy ban Đoàn kết nhân dân Á – Phi hai miền Nam và Bắc Việt Nam tới thăm để trình bày tình hình cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, tranh thủ chính phủ và nhân các nước đó lên án những bước leo thang chiến tranh nghiêm trọng của Mỹ.
Song song với quan hệ đoàn kết với AAPSO, Ủy ban Đoàn kết nhân dân Á – Phi của Việt Nam cũng là một trong những thành viên sáng lập của Tổ chức Đoàn kết nhân dân Á – Phi – Mỹ Latinh(OSPAAAL). OSPAAAL được thành lập theo sáng kiến của Đảng và Chính phủ Cuba với sự ủng hộ của AAPSO sau Hội nghị Đoàn kết ba châu, ra mắt ngày 1-1-1966 và đặt trụ sở tại La Habana.
Ngoài Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam và Ủy ban Đoàn kết nhân dân Á – Phi của Việt Nam, một số hoạt động hòa bình, đoàn kết, hữu nghị còn được tiến hành thông qua kênh của Hội Quốc tế ngữ bảo vệ hòa bình của Việt Nam (thành lập tháng 10-1956) và đã tranh thủ thêm được sự đồng tình, ủng hộ của phong trào quốc tế ngữ thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Thời kỳ này, Hội là thành viên của Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam do đồng chú Nguyễn Văn Kỉnh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Chủ tịch.
Ngày 5-6-1974, Ủy ban Việt Nam đoàn kết và hữu nghị với nhân dân các nước được thành lập với đối tác là nhân dân các nước mà ta chưa có tổ chức hữu nghị riêng. Bộ trưởng Bộ văn hóa Hoàng Minh Giám được cử làm Chủ tịch, Bác sĩ Trần Duy Hưng là Phó Chủ tịch.
Ở miền Nam, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960) và nhiều tổ chức nhân dân thành viên Mặt trận đã mở ra một thời kỳ hoạt động sôi nổi, sâu rộng của đối ngoại nhân dân.
Bên cạnh các tổ chức phụ nữ, thanh niên, sinh viên, lao động, nông dân, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, Phật giáo, Công giáo (mỗi tổ chức đều có những hoạt động đối ngoại riêng)… còn có một số tổ chức chuyên làm công tác đối ngoại nhân dân, như: Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của miền Nam Việt Nam (thành lập tháng 9-1961, Chủ tịch là Bác sĩ Phùng Văn Cung), Ủy ban đoàn kết Á – Phi của miền Nam Việt Nam (Chủ tịch là Giáo sư Nguyễn Ngọc Thưởng), Ủy ban nhân dân miền Nam Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ Latinh (Chủ tịch là Hòa thượng Thích Thiện Hào), Ủy ban nhân dân miền Nam Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ (Chủ tịch là Dược sĩ Hồ Thu).
Mật trận và các tổ chức thành viên, một mặt, kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ, cơm no, áo ấm cho nhân dân, hòa bình, thống nhất Tổ quốc; mặt khác, đặc biệt từ năm 1962, từng bước triển khai nhiều hoạt động đối ngoại nhân dân với lực lượng ngày càng đông đảo. Ngay sau khi thành lập, Mặt trận đã cử ông Huỳnh Văn Tâm, Ủy viên Trung ương Mặt trận, Phó Chủ tịch Hội động giải phóng, đi dự Hội nghị bất thường Liên hiệp Công đoàn Thế giới tại Matxcova cuối tháng 12-1960. Đầu năm 1962, đoàn đại biểu của Mặt trận do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Tổng Thư ký, dẫn đàu đi thăm chính thức Tiệp Khắc, Liên Xô và Trung Quốc. Tháng 5-1962, đoàn đại biểu Mặt trận dự Đại hội Hòa bình thế giới ở Matxcova.
Sau Tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị bốn bên tại Pari (18-1-1969), rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập (6-6-1969), hoạt động đối ngoại nhân dân miền Nam càng được đẩy mạnh, mở rộng và đa dạng hóa, gắn kết với đối ngoại Nhà nước của miền Nam và với hoạt động đối ngoại chung của miền Bắc.
Hàng trăm đoàn của Mặt trận và các tổ chức thành viên đã đi hàng chục nước châu Á, châu Âu, châu Phi, Mỹ Latinh và Bắc Mỹ, đến cả thủ đô của nhiều nước đồng minh và sau của Mỹ. Các đoàn đã cung cấp thông tin, nhân chứng, tư liệu về tội ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giới thiệu đường lối, chính sách của Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời cùng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam Việt Nam, đồng thời bày tỏ đoàn kết với cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhiều tổ chức thành viên Mặt trận đã được kết nạp vào các tổ chức dân chủ quốc tế (hòa bình , công đoàn, phụ nữ, thanh niên, sinh viên, luật gia, nhà báo, nhà văn…), một số tổ chức đã được bầu vào cơ quan lãnh đạo các tổ chức này. Tháng 3-1963, Ủy ban Đoàn kết nhân dân Á – Phi của miền Nam Việt Nam đã cử đoàn do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu dự Đại hội Tổ chức đoàn kết nhân dân Á – Phi (AAPSO) tại Moshi, Tandania. Tại Đại hội này Ủy ban được bầu vào Ban Thư ký thường trực AAPSO.
Hoạt động đối ngoại của Mặt trận và các tổ chúc thành viên đã góp phần mở đường cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính phủ của nhiều quốc gia trên thế giới. Mặt khác, các đại sứ quán và cơ quan đại diện của Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời ở gần 30 nước Á, Phi, Â, Mỹ Latinh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác đối ngoại nhân dân; sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan này đã trực tiếp tạo điều kiện để củng cố và phát huy hiệu quả của hoạt động đối ngoại nhân dân.
Tại các đô thị, các hoạt động hòa bình hợp pháp đã được triển khai ngay từ Hiệp định Gionevo.
Ngày 10-8-1954, Phong trào hòa bình Sài Gòn – Chợ Lớn ra đời, chủ trương vận động nhân dân đô thị và toàn miền Nam đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Gionevo, giữ gìn hòa bình, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Phong trào cũng tìm cách tranh thủ thái độ công bằng, khách quan của đại diện các nước trong Ủy ban Giám sát và Kiểm soát quốc tế.
Ban lãnh đạo Phong trào gồm: Dược sĩ Trần Kim Quang (Chủ tịch), bà Nguyễn Thị Lựu (Phó Chủ tịch), Giáo sư Phạm Huy Thông (Tổng Thư ký). Cơ quan ngôn luận là tập san Hòa bình. Chỉ trong một thời gian ngắn, 32 Ủy ban hòa bình cơ sở đã được thành lập tại các khu phố, nhà máy, trường học.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thẳng tay đàn áp, bắt giữ 33 người chủ chốt của Phong trào. Trong số đó, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ bị quản thúc gần 7 năm (từ khi bị bắt ngày 15-11-1954 đến khi được giải thoát ngày 30-10-1961)
Nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị vẫn không bị dập tắt. Ngày 16-11-1964, Phong trào Dân tộc tự quyết (Luật sư Nguyễn Long làm Chủ tịch) được thành lập tại Sài Gòn. Ngày 16-2-1965, với Phong trào làm nòng cốt, Ủy ban Vận động hòa bình ra đời (Tổng thư ký là Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ). Ủy ban chủ trương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đô thị, tiến hành đấu tranh chính trị bằng pháp luật quốc tế, phối hợp với phong trào chống chiến tranh ở Mỹ và phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. Năm 1966, Ủy ban đã chuẩn bị tổ chức hoạt động tại Sài Gòn với sự tham gia của một đoàn gồm 6 nhân sĩ hòa bình Mỹ do Mục sư Abraham Johannes Muste dẫn đầu, nhưng không thành vì đoàn đã bị chính quyền Sài Gòn trục xuất sau khi cho một nhóm cồn đồ tấn công khiêu khích.
Sau Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, sự xuất hiện của Lực lượng chính trị thứ ba và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, tiếp đó là việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã khiến chính quyền Sài Gòn càng ráo riết đàn áp, khủng bố các phong trào đô thị.
Trong bối cảnh đó, một loạt các tổ chức đã ra đời hoặc được mở rộng, kết hợp nhiều thành phần xã hội, nhiều hình thức đấu tranh (hợp pháp, nửa hợp pháp và cả bất hợp pháp), lồng ghép hoạt động chính trị vào các hình thức sinh hoạt xã hội, văn hóa, tôn giáo.
Đặc biệt, Tổng hội sinh viên Sài Gòn (do anh Huỳnh Tấn Mẫn làm Chủ tịch) và Phong trào Phụ nữ Việt Nam đòi quyền sống (một lien minh gồm 22 tổ chức, ra mắt ngày 2-8-1970, do bà Luật sư Ngô Bá Thành làm Chủ tịch, bà Trần Thị Lan làm Tổng Thư ký) đã có những hoạt động phối hợp với các tổ chức và nhân sĩ chống chiến tranh ở Mỹ.
Ngày 11-7-1970, Tổng hội sinh viên Sài Gòn chủ trì tổ chức Đại hội sinh viên thế giới kỳ I với sự tham gia của đoàn 7 đại biểu sinh viên Mỹ, Oxtraylia, Niu Dilan, Hà Lan và Bỉ do anh Charles Palmer, Chủ tịch Hội Tổng sinh viên Mỹ (USNSA) dẫn đầu. Tuyên cáo của Đại hội đòi Mỹ và Chính quyền Sài Gòn chấm dứt đàn áp học sinh, sinh viên. Tháng 12-1970, đoàn đại biểu USNSA do Chủ tịch David Ifshin dẫn đầu thăm Sài Gòn đã ký với Tổng hội sinh viên Sài Gòn Hiệp ước hòa bình của nhân dân.
Ngày 5-1-1971, Phong trào Phụ nữ Việt Nam đòi quyền sống phối hợp với Liên hiệp quốc tế phụ nữ vì hòa bình và tự do (WILPF) tổ chức Hội nghị Phụ nữ quốc tế tại Sài Gòn với sự tham gia của Phái đoàn sứ giả hòa bình quốc tế do bà Kay Camp, người Mỹ, Chủ tịch WILPF dẫn đầu và Chủ tịch các phân bộ WILPF ở Canada, Niu Dilan, Oxtraylia, Pháp. Hội nghị đã ra tuyên bố chung, trong đó đòi Tổng thống Mỹ Nixon công bố lịch trình rút toàn bộ quân đội, cố vấn Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký (27-1-1973), Mỹ rút quân khỏi miền Nam, nhưng chính quyền Sài Gòn đã công khai phá hoại hòa bình, vi phạm các thỏa thuận về ngừng bắn, lấn chiếm vùng giải phóng, tăng cường đàn áp phong trào đô thị. Nhiều tổ chức mới ra đời, nổi bật là Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Pari ở Sài Gòn, kết hợp đấu tranh quần chúng với vận động báo chí quốc tế và tranh thủ Ủy ba Giám sát và Kiểm soát quốc tế. Phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến ngày miền Nam được giải phóng (30-4-1975).
Trong suốt hai thập niên chiến tranh ác liệt, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của Đảng, hoạt động đối ngoại nhân dân của cả hai miền Nam – Bắc đã được tiến hành liên tục, đa dạng, vừa có trọng điểm vừa luôn được mở rộng, với sự phối hợp nhịp nhàng “tuy hai mà một” giữa các tổ chức và lực lượng của hai miền, với hiệu quả ngày càng tăng, góp phần cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà nước vận động hình thành trên thực tế một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng.
Lời giải 2:
Họ tên người giải: diepcongdanh955
những nét chính về lịch sử, bản chất, truyền thống anh hùng của Quân đội và Công an nhân dân
Việt Nam;
– Từ truyền thống anh hùng của lực lượng vũ trang, rút ra những nét cơ bản của nghệ thuật quân sự qua mỗi giai đoạn;
– Tự hào với truyền thống vẻ vang trong chiến đấu và xây dựng của Quân đội và Công an nhân dân Việt Nam, từ đó có ý thức tu dưỡng, rèn luyện và trách nhiệm trong học tập cũng như sẵn sàng tham gia vào lực lượng quân đội và công an.
– Lịch sử, truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam
– Lịch sử, truyền thống Công an nhân dân Việt Nam